
08 Th9 Tâm lý học truyền thông giải mã tâm lý đời sống số
Hiểu về tâm lý học truyền thông để làm gì? Ai cần hiểu về tâm lý học truyền thông giữa bối cảnh đời sống số tạo nên những kết nối chằng chịt và là phần quan trọng trong đời sống toàn diện của mỗi người?
Nhu cầu tìm hiểu tâm lý học truyền thông
Tâm lý học truyền thông không chỉ để nắm bắt tâm lý công chúng
Hiểu tâm lý học truyền thông để nhìn rõ đời sống số của chính mình
Giáo trình Tâm lý học truyền thông ←
Nhu cầu tìm hiểu tâm lý học truyền thông
Phương tiện truyền thông (media) được cho là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong xã hội thế kỷ 21, liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống cộng đồng và là phần khó thiếu được trong thế giới siêu kết nối ngày nay.
Ngoại trừ giao tiếp trực tiếp thì những giao tiếp và kết nối phổ biến trong đời thường của chúng ta đều sử dụng phương tiện truyền thông như gọi điện thoại, nhắn tin, gửi thư điện tử, máy fax, báo chí, phim ảnh, đài truyền hình, đài phát thanh, livestream, v.v.. Những cách truyền thông mới tạo nên những tương tác mới, những tương tác mới định hình cách chúng ta thiết lập mối quan hệ mới hơn, nhiều khái niệm mới dần xuất hiện.
Năm 1982, Scott Fahlman đề xuất 2 biểu tượng : – ) 😁 và : – ( 😣 nhằm phân biệt các bài đăng nghiêm túc và bài đăng có yếu tố gây cười trên bảng tin của trường Đại học Carnegie Mellon. Những biểu tượng này sau đó được lan truyền rộng rãi trên web và được gọi là emoticon – biểu tượng cảm xúc.
Khi các nền tảng chủ chốt chi phối truyền thông thế giới phát triển gồm FANG (Facebook đã đổi thành Meta, Amazon, Netflix, Google) hay BAT (Baidu, Alibaba, Tencent) thì họ cũng tạo ra những cách tương tái mới. Thả tim, bình luận, chia sẻ, “flop”, “donate”, “flexing”, “pressing”, “stalk”, FOMO, v.v.. xuất hiện như những khái niệm thời thượng, đi vào thói quen đời sống số, tạo nên chuỗi hành vi, thái độ, chuẩn mực mới.
Tâm lý học truyền thông không chỉ để nắm bắt tâm lý công chúng
Một trong những nhận định tôi thường nghe là: “Tâm lý học truyền thông giúp hiểu khách hàng, hiểu công chúng, từ đó đưa ra những nội dung, chiến lược phù hợp”. Bấy nhiêu chưa đủ để nói về tâm lý học truyền thông.
Tâm lý học truyền thông không chỉ quan tâm đến nội dung vì nội dung không tách rời trong chuỗi tương tác trong quá trình truyền thông. Tâm lý học truyền thông xem xét toàn bộ hệ thống, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Nó là một vòng lặp liên tục bao gồm nhà phát triển công nghệ, nhà sản xuất nội dung, nhận thức về nội dung và phản hồi của người dùng. Bài báo “Media Life” của tác giả Deuze công bố năm 2011 đã nhấn mạnh chúng ta đang “sống trong” (live in) thế giới truyền thông thay vì chúng ta “sống cùng” (live with) thế giới truyền thông. Tác giả Deuze lập luận chỉ ra rằng chính trạng thái “sống trong” thế giới truyền thông dẫn dắt đến sự ảnh hưởng sâu rộng trong mọi ngóc ngách đời sống chúng ta. Bên cạnh đó, áp lực “sống trong”, chịu sự chi phối của một cộng đồng lớn, dính kết có thể làm bộc lộ những khía cạnh bất ổn đối với những người dễ bị tổn thương hơn.

Số người dùng Internet tăng trưởng liên tục.
Cả chiều dài phát triển của phương tiện truyền thông, những tương tác hay giao tiếp đều ẩn chứa những thông điệp mang cảm xúc, nhận thức, hành vi của người tham gia giao tiếp nhưng phải đến khi truyền thông số phát triển, người ta mới đặt câu hỏi về ảnh hưởng/tác động về mặt tâm lý trong quá trình truyền thông. Vì sao vậy?
Chính trong môi trường giao tiếp với các thiết bị, công nghệ số, “không gian” giao tiếp bị chồng lấn, những mối quan hệ thật-ảo đan xen, cách đón nhận – chuyển tải – nắm bắt – phản hồi thông tin cũng trở nên dồn dập, chằng chịt hơn. Điều này làm cho nhận thức – cảm xúc – hành vi của người dùng biến đổi không ngừng bởi họ phải tiếp nhận quá nhiều thông điệp với bộ lọc đặc trưng của riêng mỗi người. Có thể nhắc đến 3 mô hình truyền thông chính gồm: Mô hình Tuyến tính (Linear models): Chú trọng giao tiếp một chiều; Mô hình Tương tác (Interactive models): Chú trọng giao tiếp hai chiều; Mô hình Tương hỗ (Transactional models): Chú trọng giao tiếp nhiều chiều trong bối cảnh phức tạp và độ nhiễu cao. Trong bối cảnh hiện nay, tương tác trong đời sống số khó có thể là tương tác đơn thuần một chiều mà là chuỗi nhưng tác động – phản hồi liên tục.
Có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thông số, trong đó phần lớn là mạng xã hội đến cảm xúc, nhận thức, hành vi của người dùng.
Tâm lý học truyền thông là một lĩnh vực nghiên cứu mới. Lần lại những nghiên cứu, có thể xác định tâm lý học truyền thông được bắt nguồn từ nhà tâm lý học xã hội Hugo Mṅnsterberg, người đã viết về tác động của phim ảnh đối với khán giả vào năm 1916 trong cuốn sách có tên “The Photoplay: A Psychological Study” (Fischoff, 2005). Nghiên cứu ban đầu về tác động của truyền thông vào những năm 1950 tập trung vào phương tiện truyền thông dành cho trẻ em và cách nó có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Khía cạnh tìm hiểu này vẫn được tiếp nối cho đến ngày nay, mở rộng về cách phương tiện truyền thông ảnh hưởng đến cá nhân (không chỉ ở trẻ em) trong những nghiên cứu toàn diện hơn về tâm lý học truyền thông ngày nay. (Mares & Bonus, 2021).
Hiểu tâm lý học truyền thông để nhìn rõ đời sống số của chính mình
Hầu hết các định nghĩa đều thừa nhận rằng tâm lý học truyền thông là sự kết hợp giữa các ngành tâm lý học và nghiên cứu truyền thông/phương tiện truyền thông.
Tâm lý học truyền thông quan tâm đến các chiều kích tâm lý bên trong các cá nhân và giữa họ, đây là yếu tố làm nền tảng cho tác động, gây ảnh hưởng trong quá trình sử dụng các phương tiện truyền thông chuyển tải các chủ đề cụ thể. (FischofF, 2005, tr. 2)
Cuốn sách đầu tiên đề cập cụ thể đến tâm lý học truyền thông được viết bởi David Giles (2003, 2010). Tạp chí đầu tiên trong lĩnh vực này là Tạp chí Tâm lý Truyền thông của Stuart Fischoff, một tạp chí trực tuyến truy cập mở bắt đầu xuất bản vào năm 1998 và kết thúc khi ông qua đời vào năm 2014.
Tâm lý học truyền thông là khoa học nghiên cứu về hành vi, suy nghĩ và cảm xúc của con người trong bối cảnh sử dụng và sáng tạo phương tiện truyền thông. (Dill, 2013, tr. 5)
Nhóm tác giả Raney, Janicke-Bowles, Oliver, & Dale năm 2021 nhắc đến 3 khía cạnh nổi bật của tâm lý học truyền thông là ảnh hưởng từ truyền thông (media effects), hiệu ứng của cả nội dung truyền thông và công nghệ liên quan đến truyền thông; các quá trình truyền thông (media processes) như nhận thức và sự chú ý; hiểu biết về truyền thông (meida literacy), bao gồm cách tối ưu để giảm thiểu những cạm bẫy tiềm ẩn có thể đi kèm với việc sử dụng truyền thông.
Những yếu tố này liên quan đến tất cả người dùng.
Mỗi người, khi “nhúng” mình vào trong thế giới truyền thông thông qua tạo ra, đón nhận thông tin thì cũng đã đóng góp vào chuỗi vòng lặp liên tục của gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng.
Hiểu về tâm lý học truyền thông giúp mỗi người tự quan sát, nhận ra mình đang đóng vai trò gì trong chuỗi liên kết, vòng lặp tương tác số. Chúng ta có thể làm gì để bảo vệ chất lượng đời sống của mình? Câu trả lời không nằm ở ai khác ngoài chính chúng ta.
Tâm lý học truyền thông dành cho tất cả.
Tâm lý học truyền thông ([email protected]) – Hiểu về truyền thông qua lăng kính tâm lý học. Truyền thông khoa học về tâm lý. Củng cố sức khỏe tâm lý và gắn kết những mối quan hệ, tương tác khỏe mạnh.
Sorry, the comment form is closed at this time.